1. Mô tả
Vịt có ngoại hình điển hình của một giống siêu trứng như cổ cao và dài, đầu nhỏ, mỏ dài, ngực hẹp, thân hình thon dài, dài đòn, háng rộng và bầu, tỉ lệ thuần về giống cao, màu sắc lông đồng đều (chúng có màu lông cánh sẻ nhạt), con mái trưởng thành đa số có màu cánh sẻ nhạt, con trống có lông ở đầu xám hoặc xanh đen, cổ có khoang trắng, phần thân có màu nâu đỏ xen lẫn lông trắng, phần đuôi có lông màu xanh đen và có 2–3 lông móc rất cong, chúng giống
vịt trời (vì có đặc điểm cổ dài, đầu xanh, lông rằn). Nhìn chung, chúng có cơ thể gọn, nhỏ, tới lúc đẻ, con mái nặng khoảng 1.080g (1,08 kg) và con trống nặng khoảng 1140g (1,14 kg), chúng chỉ nặng hơn 1kg.
Khối lượng cơ thể vịt khi vào đẻ nhỏ, trọng lượng vịt 145 ngày tuổi là 1,4 kg/con Do trọng lượng của vịt Triết Giang cho đẻ khá nhỏ (khoảng 1,2 - 1,4 kg/con) nên tiêu tốn
thức ăn ít hơn. Đối với những
con giống thải loại (con đực) cho dù tốn công nuôi nhưng chỉ chân ngày càng cao, cổ ngày càng dài, nuôi 3 tháng chỉ nặng có 250 gram. Chúng ăn nhiều nhưng chậm lớn, chỉ có da bọc xương, nhiều đàn vịt nuôi mãi không lớn, ăn nhiều nhưng không lớn, nuôi đến 3 tháng chỉ tăng được 2,5 – 3 lạng/con. Riêng chân và cổ thì ngày càng dài, còn thân thì bé quắt.
2. Đẻ trứng
Chúng có tuổi đẻ sớm, nuôi 16-17 tuần đã đẻ đẻ trứng đầu sớm (110-1 12 ngày tuổi). Nó là giống vịt đẻ sớm nhất. Mỗi năm, 1 mái đẻ được 267-258 quả. Vịt đẻ bền, trọng lượng trứng trung bình đạt 61,4g. Tiêu tốn
thức ăn/10 trứng trung bình là 2,23 kg
thức ăn trong điều kiện nuôi tập trung, sau 88 ngày nuôi vịt bắt đầu đẻ trứng, tỷ lệ đẻ trứng đạt 90% ở 125 ngày, trọng lượng trứng 55 gam/quả, hình dạng trứng dài.
Khối lượng cơ thể lúc vào đẻ thấp 1,3-1,5 kg, tỷ lệ đẻ rất cao 98% - 100%, năng suất trứng bình quân/ mái đạt 227 - 239 quả (trong 10 tháng đẻ), trung bình từ 247 – 258 quả/mái/năm; khối lượng 60 - 70 g/quả, tỷ lệ trứng có phôi là 93%, tỷ lệ trứng loại là 5,6%, tỷ lệ trứng sát là 5,1%, tỷ lệ
ấp nở 89,3%, tỷ lệ trứng nở/ tổng số trứng đưa vào ấp đạt 83,7%, tỉ lệ bắt đầu đẻ đến khi đạt kích cỡ đồng đều về trứng cao hơn giống vịt địa phương (vịt cỏ) từ 15 - 20 ngày.
Vịt Triết Giang đẻ nhanh đạt tới tỷ lệ đẻ cao đến giai đoạn 160 ngày tuổi đạt trên 80%, vịt đẻ đạt đỉnh cao nhất là 93% ở 360 ngày tuổi, năng suất trứng đến 37 tuần đẻ đạt 197 – 201 quả/vịt mái. Vịt đạt tỷ lệ đẻ cao đến giai đoạn 180 ngày tuổi đạt trên 80%, vịt đẻ đạt đỉnh cao nhất là 90% ở 360 ngày tuổi, năng suất trứng đến 37 tuần đẻ đạt 184 – 189 quả/vịt mái. Vịt Triết Giang đạt trọng lượng về sự đồng đều về trứng sớm hơn vịt là 15 -20 ngày. Khối lượng sinh trưởng của vịt siêu trứng Triết Giang tại một số mô hình thí điểm thì tuần tuổi thứ 4 đạt 0,6 - 0,7 kg và vịt bắt đầu đẻ trứng ở tuần tuổi 13 với (sớm so với quy trình khoảng 2 tuần) với trọng lượng khoảng 1,2 kg - 1,4 kg; tỷ lệ đẻ đạt 50% ở 15 tuần tuổi, tỷ lệ đẻ đạt 90% ở tuần tuổi thứ 17, kết quả này tương đương so với các hộ nuôi vịt thả dưới ao, hồ.
3. Tập tính
Vịt Triết Giang có những ưu điểm nổi bật như rất dễ nuôi, tìm mồi giỏi, thích hợp chạy đồng gần, tận dụng lúa rơi vãi, chúng thích hợp với nhiều vùng sinh thái, sức kháng bệnh cao, tuổi đẻ quả trứng đầu tiên rất sớm so với giống vịt cỏ vịt có sức đề kháng tốt, tỷ lệ sống cao, sức kháng bệnh cao hơn giống vịt địa phương. trong quá trình nuôi tỉ lệ hao hụt thấp, chủ yếu do nhiễm bệnh viêm đường hô hấp, vịt đẻ trứng đồng đều sớm hơn so với những giống khác từ 15-20 ngày, khả năng cho trứng từ 2-3 năm. Vịt thích nghi được trong điều kiện khí hậu, thời tiết không thuận, nhưng vào thời kỳ thay lông vịt rất mẫn cảm với nhiệt độ thấp, ẩm ướt, cần chú ý chuồng sạch, khô ráo, thoáng, cần thay chất động chuồng hàng ngày để hạn chế nấm mốc.